Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

吁嗟篇 

Hu ta thiên 

Hu ta thử chuyển bồng, 
Cư thế hà độc nhiên. 
Trường khứ bản căn thệ, 
Túc dạ vô hưu nhàn. 
Đông tây kinh thất mạch, 
Nam bắc việt cửu thiên.
 
Tốt ngộ hồi phong khởi, 
Xuy ngã nhập vân gian. 
Tự vị chung thiên lộ, 
Hốt nhiên hạ trầm uyên. 
Kinh tiêu tiếp ngã xuất, 
Cố quy bỉ trung điền. 
Đương nam nhi cánh bắc, 
Vị đông nhi phản tây. 
Đãng đãng đương hà y, 
Hốt vong nhi phục tồn. 
Phiêu diêu chu bát trạch
Liên phiên lịch ngũ san
Lưu chuyển vô hằng xứ, 
Thuỳ tri ngô khổ gian. 
Nguyện vi trung lâm thảo, 
Thu tuỳ dã hoả phần. 
My diệt khởi bất thống, 
Nguyện dữ căn cai liên.
                   Tào Thực

Dịch nghĩa 

Thiên tự than thân

Thương thay thân ta phiêu bồng, 
Ở trên đời này cô độc sao. 
Rời bỏ nơi gốc gác, 
Ngày đêm chẳng được nghỉ ngơi. 
Đông tây qua bảy đường, 
Nam bắc vượt chín lối. 
Bỗng gặp trận cuồng phong nổi lên, 
Thổi ta lên trời mây. 
Vừa mới lên đến trời, 
Bỗng lại rơi xuống vực. 
Gió lớn cuốn ta ra, 
Khiến ta rơi xuống cánh đồng nọ. 
Đang nam bỗng lại thành bắc, 
Tưởng đông mà hoá lại là tây. 
Thật ghê gớm làm sao, 
Bỗng như sống như chết. 
Phiêu diêu qua tám đầm, 
Bay qua năm ngọn núi. 
Lưu chuyển không có nơi cố định, 
Có ai hay ta khổ cực. 
Nguyện làm cỏ trong rừng, 
Mùa thu cháy theo lửa hoang. 
Bị thiêu cháy lẽ nào không đau, 
Chỉ mong rễ vẫn còn liền.

Dịch thơ

Thiên tự than thân

Thương thân ta phiêu bạc, 
Cô độc trên đời này. 
Rời bỏ nơi gốc gác, 
Đâu thảnh thơi một ngày. 
Vượt chín đường nam bắc, 
Qua bảy lối đông tây. 
Bỗng trận cuồng phong nổi, 
Cuốn ta tới tận mây. 
Vừa mới lên trời thẳm, 
Lại rơi xuống vực này. 
Gió lớn kéo ra được, 
Quẳng vào cánh đồng đây. 
Đang nam mà thành bắc, 
Tưởng đông lại hoá tây. 
Ngẫm ra mà ghê gớm, 
Như sống chết đổi thay. 
Qua tám đầm trôi nổi, 
Hết năm núi lượn bay. 
Lưu chuyển không an định, 
Khổ cực nào ai hay. 
Thà như cỏ trên bãi, 
Mùa thu cháy thân gầy. 
Héo tàn há chẳng cực, 
Mong rễ vẫn liền dây.
                Điệp Luyến Hoa


Đây là một bài nhạc phủ, thuộc "Tương hoạ ca từ". Theo "Nhạc phủ giải đề", Tào Thực phỏng "Khổ hàn hành" 苦寒行 mà sáng tác. Bài này của Tào Thực tỏ ý trách bị Văn Đế Tào Phi bức hại, trước sau trong hơn 10 năm bị đổi đất phong liên tục, có lẽ được sáng tác vào năm Thái Hoà thứ 3 (229) đời Nguỵ Minh Đế sau khi Tào Thực được phong làm Đông A vương. Hai câu cuối ý nói chết dù đau đớn nhưng chỉ mong vẫn còn được gần với tổ tiên (loài cỏ, cây mẹ sinh ra cây con rễ nối liền với nhau). 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét