"QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" - KHỔNG GIÁO
Khổng Tử nói rằng:
“Quân tử học đạo tắc ái quân, tiểu nhân học đạo tắc di sử giã” (Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ khiến). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).
Khổng Tử nói rằng:
“Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩavi đạo”. (Quân tử chuộng nghĩa, Quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn. Tiểu nhân có dũng mà không cò nghĩa thì làm đứa ăn trộm). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).
Khổng Tử bảo thầy Tử Hạ rằng:
“Nhữ vi Quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho”. (Ngươi làm nho Quân tử, không làm nho tiểu nhân). (Luận ngữ: Ung Giã, VI).
Khổng Tử phân biệt cái thái độ thế nào là Quân tử, thế nào là tiểu nhân. Ngài nói rằng: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”.
(Quân tử đạt về cái lý cao minh, tiểu nhân đạt về cái lý đê hạ). (Luận Ngữ: Hiến vấn, XIV).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”. (Quân tử hiểu rõ chưng nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ chưng lợi). (Luận Ngữ: Lý Nhân, IV).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử Trung dung, tiểu nhân phản Trung dung” . (Quân tử thì Trung dung, tiểu nhân thì trái Trung dung). (Trung dung).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”. (Quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người) (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV)
Khổng Tử dạy:
“Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”. (Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái). (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”. (Quân tử hòa với mọi người mà không về hùa với ai, tiểu nhân thì về hùa với mọi người mà không hòa với ai). (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu”. (Quân tử chung khắp cả mọi người mà không tây vị, tiểu nhân tây vị mà không chung). (Luân Ngữ: Vi Chính, II).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích thích”. (Quân tử bao giờ trong bụng cũng thẳng lòng lọng, tiểu nhân bao giờ trong bụng cũng lo ngai ngái). (Luận Ngữ: Thuật Nhi, VII).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử cố cùng, tiểu nhân cung tư lạm hỹ” (Quân tử cố giữ lúc khốn cùng, tiểu nhân phải lúc khốn cùng thì làm vậy). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử bất khả tiểu tri, nhi khả địa phụ giã; tiểu nhân bất khã đại thụ, nhi khã tiểu tri giã”. (Quân tử không thể biết được cái nhỏ mà có thể chịu được cái lớn, tiểu nhân không có thể chịu được cái lớn, mà có thể biết được cái nhỏ vậy). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV)
Khổng Tử dạy:
“Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị”. (Quân tử gây thành cái hay cho người ta, không gây thành cái ác cho người ta; tiểu nhân không thế). (Luận Ngữ: Nhan Uyên, XII).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử vị sự nhi nan, duyệt giã, duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt giã, cập kỳ sử nhân giã, khí chi; tiểu nhân nan sự, nhi dị duyệt giã, duyệt chi bất dĩ đạo, duyệt giã, cập kỳ sử nhân giã, cầu bị yên”. (Quân tử dễ thờ mà khó làm cho đẹp lòng, vì không lấy đạo làm cho đẹp lòng thì không đẹp lòng, kịp đến dùng người thì tùy tài mà dùng; tiểu nhân khó thờ mà dễ làm cho đẹp lòng, vì không lấy đạo làm cho đẹp lòng cũng đẹp lòng, kịp đến dùng người thì cầu toàn trách bị”. (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).
Khổng Tử dạy:
“Quân tử nhi bất nhân giã, hữu hỹ phù? Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả giã”. (Quân tử mà bất nhân, có vậy chăng? Chưa có tiểu nhân mà là người có nhân vậy). (Luận Ngữ: Hiến Vấn, XIV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử bất ưu, bất cụ”. (Quân tử không lo, không sợ). (Luận Ngữ: Nhan Uyên, VII).
Khổng Tử nói:
“Quân tử ưu đạo bất ưu bần”. (Quân tử lo đạo, không lo nghèo). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, VI).
Khổng Tử nói:
“Quân tử bất khí”. (Quân tử tùy nghi làm việc gì cũng được, chứ không chỉ một tài, một nghệ mà thôi). (Luận Ngữ: Vi Chính, II).
Khổng Tử nói:
“Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng”. (Quân tử nghiêm trang mà không tranh với ai, hợp quần với mọi người mà không bè đảng). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử vô sở tranh tất giã xạ hồ! Ấp nhượng nhi thăng, hạ nhi ẩm, kỳ tranh giả quân tử”.(Quân tử không tranh gì cả, mà có tranh nữa thì ắt là như việc bắn thi chăng! Vái nhường rồi mới lên thềm, xuống thềm mời nhau uống rượu, sự tranh ấy là sự tranh Quân tử). (Luận Ngữ: Vấn Bái, III).
Khổng Tử nói:
“Quân tử dục nột ư ngôn, nhi mẫu ư hành”. (Quân tử muốn nói thì chậm mà làm thì nhanh). (Luận Ngữ: Lý nhân IV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử trinh nhi bất lượng”. (Quân tử cố giữ điều ngay chính, mà không cố chấp những điều tiểu tín). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử thượng giao bất siểm, hạ giao bất độc”. (Quân tử giao với người trên thì không nịnh, giao với người dưới thì không nhàm).
Khổng Tử nói:
“Quân tử kiến cơ nhi tác”. (Quân tử xem cơ màu mà động tác).
Khổng Tử nói:
“Quân tử kinh dĩ trực nội, nghĩa dĩ phương ngoại”. (Quân tử chủ ở sự kính để giữ cái bụng cho thẳng, giữ điều nghĩa để khiến các việc ở ngoài cho có khuôn phép).
Khổng Tử nói:
“Quân tử chí ư thiên hạ giã, vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa chi dữ tỉ”. (Quân tử đối với việc thiên hạ không chuyên chủ một việc nào, không cố chấp không làm một việc nào, cứ theo cái công chính mà làm mọi việc). (Luận Ngữ: Lý Nhân, IV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử nghĩa dĩ vi chất: Lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi, Quân tử tai!”.Quân tử lấy nghĩa làm cốt: lấy lễ mà làm, lấy khiêm tốn mà thi thố ra, lấy lòng tin mà thành tựu thật là Quân tử vậy thay!). (Luân Ngữ: Vệ Linh Công, XV).
Khổng Tử nói:
“Quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo, hành nhi thế vi thiên hạ pháp, ngôn nhi thế vi thiên hạ tắc, viễn chi tắc hữu vọng, cận chi tắc bất yếm”. (Quân tử cử động có thể đời đời làm đạo cho thiên hạ, hành vi có thể đời đời làm khuôn phép cho thiên hạ, nói năng có thể đời đời làm chuẩn tắc cho thiên hạ, người ở xa có trông mong, người ở gần không bao giờ chán). (Trung Dung).
Khổng Tử nói:
“Quân tử chi đạo, đạm nhi bất yếm, giản nhi văn, ôn nhi lý”. (Đạo của người Quân tử nhạt mà không chán, giản dị mà có văn vẻ, ôn hòa mà hợp lý). (Trung Dung).
Khổng Tử nói rằng:
“Quân tử bất trọng, tắc bất uy, học tắc bất cố. Chủ trung tín vôhữu bất như kỷ giả, quá tắc vật đạn cải”. (Quân tử không hậu trọng thì không uy nghiêm, học không kiên cố. Chủ ở sự trung tín, không bạn với người không làm điều nhân như mình, có điều lỗi thì chớ sợ tìm cách mà sửa đổi). (Luận Ngữ: Học Nhi, I).
Khổng Tử nói: “Xạ hữu tự hồ Quân, thất chư chính hộc, phản cầu chư kỳ thân”.(Người tập bắn cũng tựa như người Quân tử, bắn không trúng bia thì tự xét lại mính). (Trung Dung).
Người Quân Tử thấy điều thiện thì phải cố làm cho được, thấy điều ác thì phải sợ hãi, như lời cổ nhân đã nói: “Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang”.(Thấy điều thiện phải cố làm như là theo không kịp, thấy điều bất thiện thì phải sợ hãi như thò tay vào nước sôi). (Luận Ngữ: Quý Thị, XVI).
Khổng Tử nói: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giã”. (Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy). (Luận Ngữ: Vi chính, II).
Khổng Tử nói: “Chất thắng văn tất dã, văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu Quân tử”. (Chất hơn văn thì quê mùa, văn hơn chất thì kém lòng thành thật; văn chất đều đều nhau, nhiên hậu mới thật là Quân tử). (Luận Ngữ: Ung Giã, VI).
Thầy Tử Lộ hỏi Khổng Tử thế nào là người hoàn toàn, Ngài nói rằng: “Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yêu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hỹ”. (Thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy sự nguy cấp thì trao mệnh mình mà chống lại, lời giao ước đã lâu năm mà không quên, người ấy cũng khá cho là người hoàn toàn vậy). (Luận Ngữ: Hiến Văn, XIV).
Thầy Nhan Uyên hỏi cái đức hạnh của người hoàn toàn là như thế nào, Khổng Tử nói rằng:“Thành nhân chi hạnh, đạt hồ tình tính chi lý, thông hồ vật loại chi biến tri u minh chi cố, đổ du khí chi nguyên, nhược hữu khả tắc vị thành nhân. Ký tri thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa, sức thân dĩ lễ nhạc. Phù nhân nghĩa lễ nhạc, thành nhân chi hanh giã, cùng thần tri hóa, đức chi thịnh giã”. (Đức hạnh của bâc Thành nhân là: Đạt cái lý của tình tính, suốt cái biến của vật loại, biết cái cớ u minh, rõ cái nguồn du khí (như là sống chết hồn phách), như thế gọi là bậc thành nhân. Đã biết Đạo Trời, lại đem mình làm những điểu nhân nghĩa, trang sức mình bằng lễ nhạc. Nhân nghĩa lễ nhạc là cái hạnh của bậc thành nhân, cùng thần tri hòa, cái đức đến thế thật là thịnh vậy). (Khổng Tử tập ngữ: Sở phạt Trần, XVIII).

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét