Binh Pháp Tôn Tử và 36 kế sách
(Tam thập lục kế)
Ba mươi sáu kế (Tam thập lục kế hay Tam thập lục sách) là một bộ
sách tập hợp 36 sách lược quân sự của Trung Quốc cổ đại, ba mươi
sáu kế bắt đầu xuất hiện từ thời Nam Bắc triều và tới thời nhà Minh
thì được tập hợp thành sách.
Tôn Tử nói: Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc
sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước, không thể
không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Cho nên, phải dựa vào năm
mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện tốt
xấu giữa hai bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến
tranh:
Một là Đạo:
Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa, phải làm cho nguyện vọng của
dân chúng và vua nhất trí với nhau, đồng tâm đồng đức. Có như
vậy, trong chiến tranh mới có thể bảo nhân dân vì vua mà chết, vì
vua mà sống, không sợ hiểm nguy.
Hai là Thiên:
Thiên là thiên thời, nói về ngày đêm, trời râm trời nắng, trời lạnh
trời nóng, tức tình trạng về khí hậu thời tiết.
Ba là Địa:
Địa là địa lợi, nói về đường sá xa gần, địa thế hiểm yếu hay bằng
phẳng, khu vực tác chiến rộng hẹp, địa hình phải chăng có lợi cho
tiến công, phòng thủ, tiến tới, thối lui.
Bốn là Tướng:
Tướng là tướng soái, tức nói về tài trí, uy tín, lòng nhân ái, lòng can
đảm, sự uy nghiêm của người tướng.
Năm là Pháp:
Pháp là pháp chế, nói về tình trạng tổ chức, biên chế, sự quy định
về hiệu lệnh chỉ huy, sự phân chia chức quyền của tướng tá, sự
cung ứng vật tư cho quân đội và chế độ quản lý…
Tình huống về năm mặt nói trên, người tướng soái không thể không
biết. Chỉ khi nào hiểu rõ và nắm chặt được những tình huống đó
thì mới có thể giành được sự thắng lợi. Không thật sự hiểu rõ và
nắm chắc được thì không thể đắc thắng. Cho nên phải từ bảy mặt
sau mà tính toán, so sánh những điều kiện đôi bên giữa địch và ta
để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh. Tức là phải xem
xét:
- Vua bên nào có nền chính trị được lòng dân hơn?
- Tướng soái bên nào có tài năng hơn?
- Thiên thời địa lợi bên nào tốt hơn?
- Pháp lệnh bên nào được quán triệt hơn?
- Thực lực quân đội bên nào mạnh hơn?
- Binh sỹ bên nào được huấn luyện thành thục hơn?
- Thưởng phạt bên nào nghiêm minh hơn?
Căn cứ vào những điều đó, ta có thể tính toán mà biết trước được ai
thắng ai thua. Nếu chịu nghe mưu kế của ta, để cho ta chỉ huy tác
chiến thì chiến tranh có thể thắng lợi, ta sẽ ở lại; Nếu không chịu
nghe mưu kế của ta, cho dù có dùng ta để chỉ huy tác chiến, chiến
tranh tất nhiên bị thất bại, ta sẽ rời đi (Nguyên tác "Tướng thinh
ngã kế, dụng chi tất thắng, lưu chi; tướng bất thinh ngã kế, dụng
chi tất bại, khứ chi").
Nếu kế sách có lợi và được chấp thuận, còn phải tìm cách tạo ra
tình thế có lợi để làm điều kiện phụ trợ bên ngoài cho việc tiến
hành chiến tranh. Thế, tức là căn cứ vào tình huống phải chăng có
lợi để mà có hành động tương ứng. Dùng binh đánh giặc là hành
động dối trá (Nguyên tác: “Binh giả, quỷ đạo giã” là câu cửa
miệng rất nổi tiếng của các vị trí tướng). Thông thường, nếu có thể
tấn công thì giả như không thể tấn công, muốn đánh như giả như
không muốn đánh, muốn hành động ở gần nhưng giả như muốn
hành động ở xa, muốn hành động ở xa nhưng lại giả như muốn
hành động ở gần. Lấy lợi mà dụ kẻ tham, chiến thắng kẻ loạn,
phòng bị kẻ có thực lực, tránh kẻ thù mạnh, khiêu khích kẻ hay
giận dữ. Địch khinh thường thì làm chúng thêm kiêu, địch nhàn hạ
thì làm chúng vất vả, địch đoàn kết thì làm chúng ly tán. Tấn công
kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ
tới (nguyên tác: “Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý“).
Tất cả những điều nói trên đều là sự khôn khéo để thủ thắng của
nhà quân sự, nhưng lại không thể quy định trước một cách máy
móc. Phàm trước khi khai chiến, đoán được thắng là do tính toán
đầy đủ. Trước khi khai chiến mà đoán không thắng là do tính toán
không chu đáo. Tính nhiều hơn tính ít, huống hồ không tính toán
gì. Quan sát đủ các mặt đó, ai thắng ai bại có thể đoán trước được.
Ngày nay khi nhắc tới 36 kế sách trong Binh Pháp Tôn Tử thì hầu
hết chúng ta đều liên tưởng qua lĩnh vực Quản lý và Marketing.
Các nhà lãnh đạo, chiến lược gia, chuyên gia marketing đều phải
am hiểu các kế sách này để phục vụ cho công việc của mình. Giá trị
về mặt thực dụng của 36 kế sách này vẫn tồn tại như một triết lý
sống vĩnh cửu.
Trong bài viết này, Chính sẽ giới thiệu các khái niệm cô đọng về
từng “mưu kế“, “giải nghĩa” và “điển cố” (nghĩa là những tích
truyện xưa (cũng gọi là điển tích)). Trong Tam Thập Lục Kế (Tôn
Tử binh pháp) cũng được chia ra thành 6 nhóm chiến kế khác
nhau, đó là:
*Thắng Chiến Kế
*Địch Chiến Kế
*Công Chiến Kế
* Hỗn Chiến Kế
*Tịnh Chiến Kế
*Bại Chiến Kế
>< Thắng chiến kế
Kế Man thiên quá hải
+ Giải nghĩa: Giấu trời qua biển, lợi dụng sương mù để lẩn trốn
+ Điển cố: Gia Cát Lượng dùng một biến thể là kế Thuyền cỏ
mượn tên để lừa lấy tên của Tào Tháo trong trận Xích Bích.
+ Diễn giải:
- Kế “Man thiên quá hải” là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn
trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.
+ Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như
một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới
như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó. Kế “Man
thiên” đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích
cực. Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt. Tiêu
cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để
thoát bí.
– Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn
cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy
rơm tạc hình thù giống một đội binh lính, đợi lúc trời sương mù,
âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào
sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các
thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một
người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi
tên.
Vây Ngụy cứu Triệu
+ Giải nghĩa: Để cứu nước Triệu thì cần mang quân vây nước
Ngụy
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, Bàng Quyên đem quân nước Ngụy
tấn công nước Triệu rất gấp. Tôn Tẫn, bạn học cũ của Bàng Quyên,
bày kế cho nước Tề đem quân vây nước Ngụy, y rằng Bàng Quyên
phải kéo quân về giải vây, nước Triệu được cứu.
Tá đao sát nhân
+ Giải nghĩa: Mượn dao giết người, mượn tay người khác để giết
kẻ thù
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Tào Tháo ghét Nễ Hành tính tình ương
bướng không chịu khuất phục bèn cử ông ta đến chầu Lưu Biểu.
Quả nhiên Nễ Hành làm Lưu Biểu tức giận rồi bị giết.
+ Diễn giải: - Kế “Tá đao sát nhân” là mượn dao để giết người,
mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.
– Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến
huyết phi anh hùng“. (Giết người không thấy máu, thấy máu không
anh hùng).
– Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh
hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người.
Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay
ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng
quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột,
thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.
Dĩ dật đãi lao
+ Giải nghĩa: Lấy nhàn để đối phó với mỏi mệt
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, Phù Kiên đem một triệu quân tấn
công nhà Tấn. Tuy nhiên Tạ An, Tạ Huyền nắm vững tinh thần Dĩ
dật đãi lao nên dùng quân Tấn ít hơn nhưng tinh nhuệ, có trật tự,
được nghỉ ngơi, đánh cho Phù Kiên đại bại.
+ Diễn giải:
- Kế “Dĩ dật đãi lao” là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp,
nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức. Kế này viết ở trong thiên
“Quân Tranh” của bộ “Tôn Tử Binh Pháp“: “Lấy gần đợi xa, lấy
nhàn đợi mệt” nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị
chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch. Cũng có ý nói nên
chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình
biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt,
tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.
– Tôn Tử gọi thế là: “Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên
chín từng trời“.
– Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng
biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời
cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập
tức lấp sông, chuyển bể. Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn,
Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích, Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi
Quan Độ, Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy,.. Tất cả đều lấy ít
đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng
tài tình sách lược “Dĩ dật đãi lao”.
Sấn hỏa đả kiếp
+ Giải nghĩa: Tranh thủ nhà cháy mà đánh cướp, lợi dụng lửa để
hành động
+ Điển cố: Trước trận Xích Bích, Lưu Bị chỉ là một lãnh chúa nhỏ
nắm trong tay một thành Tương Dương người thưa quân ít. Lợi
dụng thất bại của Tào Tháo ở Xích Bích, Lưu Bị tung quân chiếm
Kinh Châu rồi từ đó phát triển thế lực ngang bằng với Tào Tháo,
Tôn Quyền.
+ Diễn giải:
- Kế “Sấn hỏa đả kiếp” là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình
hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn. Có hai loại “Sấn hỏa đả
kiếp”: Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa
mà đánh cướp. Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy
biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự
hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta. Theo lửa hay phóng hỏa
cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để
tạo cơ hội cho ta. Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa
thì tự ta tạo ra thời cơ.
– Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào
dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo
giữa không khí và nước.
– Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi.
Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề,
lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở. Trương Nghi thật là con
người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ
nghiệp thống nhất cho nhà Tần.
– Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế
của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị
bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế
nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam
– Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu. “Sấn hỏa đả
kiếp” đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.
Thanh Đông kích Tây
+ Giải nghĩa: Giương Đông kích Tây, vờ đánh một hướng nhưng
thực chất là đánh hướng ngược lại
+ Điển cố: Sau trận Xích Bích, Gia Cát Lượng cho quân đốt lửa
trong đường hẻm Hoa Dung để Tào Tháo nghi ngờ rằng quân Lưu
Bị dùng kế giương Đông kích Tây rồi chọn chính đường Hoa Dung
để rơi vào bẫy của quân Quan Vũ.
+ Diễn giải:
- Kế “Dương đông kích tây” là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào
phía Đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía Tây. Trong tất cả mọi
vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường
cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia,
nói điều này mà làm điều nọ, ấy là “Dương đông kích tây” vậy.
– Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất
ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến
cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.
+ Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:
– Tạo tin đồn.
– Làm rối tai rối mắt địch.
– Buộc đối phương lo nhiều mặt.
– Mê hoặc ý chí của địch.
– Nghi binh.
– Làm phân tán lực lượng đối phương.
– Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.
– Nguyên tắc của “ Dương đông kích tây” là bí mật và chủ động. Bị
động coi như phải chịu sự khống chế của địch. Điều kỵ khi dùng kế
” Dương đông kích tây” là để lộ cơ. Lộ cơ là mất hết khả năng
phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay
chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.
>< Địch chiến kế
Vô trung sinh hữu
+ Giải nghĩa: Không có mà làm thành có
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, để khỏa lấp sự chênh lệch lớn về
quân số, Tạ An, Tạ Huyền tung quân Tấn tấn công sớm lực lượng
quân Tần của Phù Kiên để tạo ra cảm giác rằng quân Tấn đông đảo
không kém gì quân Tần, lại gửi thư cho Phù Kiên để nghị lui quân
Tần để Tấn sang sông, quyết chiến một trận. Quân Tần trong khi lui
quân vì hỗn loạn nên đội hình tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chết rất
nhiều (Phong thanh hạc lệ, Thảo mộc giai binh: tưởng tiếng gió,
tiếng hạc, cỏ cây là quân Tấn đang tiến công).
+ Diễn giải:
- Kế “Vô trung sinh hữu” là từ không mà tạo thành có.
– Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất
lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ “chọc trời
khuấy nước“. Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên
để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm,
tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.
– Kế “Vô trung sinh hữu” hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim
khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại
nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú
con bay về với bầy tu hú.
Ám độ Trần Thương
+ Giải nghĩa: Chọn con đường, cách thức tấn công mà không ai
nghĩ tới
+ Điển cố: Thời Hán-Sở tranh hùng, Lưu Bang bị Hạng Vũ ép vào
đóng quân trong vùng Ba Thục hẻo lánh khó ra được Trung
Nguyên. Hàn Tín bèn bày kế vờ sửa đường sạn đạo nhưng lại ngầm
dẫn quân đi đường núi hiểm trở để đánh úp ải Trần Thương, mở
đường ra Trung Nguyên cho quân Hán.
Cách ngạn quan hỏa
+ Giải nghĩa: Đứng cách bờ để xem lửa cháy, để yên cho kẻ địch tự
rối loạn
+ Điển cố: Sau Trận Quan Độ, Viên Thiệu đại bại trước Tào Tháo
rồi chẳng bao lâu qua đời. Các con của Viên Thiệu là Viên
Thượng, Viên Hy chạy tới nương nhờ Công Tôn Khang. Có người
khuyên Tào Tháo thừa thắng tấn công để bắt nốt Viên Thượng,
Viên Khang, Tào Tháo cho rằng không cần vội vì sớm muộn gì
trong nội bộ địch cũng có loạn và rút quân. Quả nhiên Công Tôn
Khang thấy Tào Tháo rút quân bèn chém đầu Viên Thượng, Viên
Hy và xin hàng Tào Tháo. Ngày nay thường thấy là kế ‘Tự diễn
biến’.
Tiếu lý tàng đao
+ Giải nghĩa: Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để kẻ địch
biết
+ Điển cố: Tể tướng của Đường Huyền Tông là Lý Lâm Phủ có bề
ngoài và xử sự hết sức hòa nhã, thân thiện nhưng thực chất lại là
người cực kì nham hiểm, dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ các đối thủ
chính trị khác. Hành động của Lý Lâm Phủ về sau được mô tả bằng
câu thành ngữ “Miệng nam mô, bụng bồ dao găm”
Lý đại đào cương
+ Giải nghĩa: Mận chết thay đào, đưa người khác ra thế thân gánh
vác tai họa cho mình
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Tào Tháo nghiêm cấm quân mình phá
hại mùa màng dân chúng nếu không sẽ bị xử tội chém. Một lần dẫn
quân qua ruộng lúa, con ngựa của Tào Tháo vì hoảng sợ mà dẫm
nát một khoảnh lúa lớn. Tào Tháo hỏi quan giám sát về cách xử tội,
quan giám sát nghị tội của Tào Tháo đáng chết nhưng tính mạng
của thừa tướng đáng trọng hơn vì vậy chém tóc để thay thế. Từ đó
quân lính của Tào Tháo sợ hãi luật lệ nghiêm minh mà tuân thủ kỉ
luật.
+ Diễn giải:
- “Lý đại đào cương” là đưa cây lý chết thay cho cây đào. Người
lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian
phạm tội lại bắt người khác thế thân.
Thuận thủ khiên dương
+ Giải nghĩa: Thuận tay bắt dê, phải tranh thủ nắm lấy cơ hội nằm
trong tầm tay
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Lưu Chương là thứ sử Ích Châu nhưng
lại có tính tình nhu nhược. Gia Cát Lượng bèn khuyên Lưu Bị tận
dụng mối quan hệ họ hàng xa để làm quen với Lưu Chương để rồi
từ đó “thuận tay bắt dê” chiếm lấy Ích Châu làm chỗ dựa.
+ Diễn giải: - Kế “Thuận thủ khiên dương” theo nghĩa đen là thuận
tay dắt con dê về. Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu.
Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là
những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.
>< Công chiến kế
Đả thảo kinh xà
+ Giải nghĩa: Đánh cỏ động rắn, tấn công vào xung quanh kẻ địch
khiến chúng hoảng sợ mà lộ diện Tá thi hoàn hồn
+ Giải nghĩa: Mượn xác trả hồn, mượn thân xác khác để đưa hồn
về
+ Điển cố: Thời Tam Quốc quân Tào Ngụy nhờ tài năng chỉ huy
của Chung Hội và Đặng Ngải mà chiếm gần như toàn bộ nước
Thục Hán. Đại tướng nhà Thục là Khương Duy bèn giả đầu hàng
với hy vọng mượn xác trả hồn, lợi dụng quân Ngụy để khôi phục
đất nước. Tuy nhiên mưu kế của Khương Duy không thành, ông bị
giết còn nước Thục hoàn toàn mất về tay Tào Ngụy.
+ Diễn giải:
- Kế “Tá thi hoàn hồn” nghĩa là mượn xác để hồn về.
– Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực
lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình. Tuy
nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất
thì tỷ như rước voi về giày mả tổ. Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì
chẳng khác gì vác xác chết về nhà.
Điệu hổ ly sơn
+ Giải nghĩa: Lừa cho hổ ra khỏi núi, khiến kẻ địch ra khỏi nơi ẩn
nấp để dễ bề tấn công
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Trương Phi được lệnh dẫn quân vào Ích
Châu để hỗ trợ Lưu Bị. Trên đường tiến quân Trương Phi bị
Nghiêm Nhan lợi dụng địa thế hiểm yếu để ngồi trong thành phòng
thủ. Trương Phi bèn lập kế giả say dụ Nghiêm Nhan dẫn quân ra
ngoài thành và đánh bại.
+ Diễn giải:
- Kế “Điệu hổ ly sơn” là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra
khỏi rừng.
– Kế “Điệu hổ ly sơn” có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ
dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn
dựa oai hổ mà hoành hành.
Dục cầm cố túng
+ Giải nghĩa: Muốn bắt thì phải thả
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Mạnh Hoạch làm phản khiến Thục
Hán bất ổn. Để thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng đã bảy lần
bắt, bảy lần thả (thất cầm thất túng, 七擒七纵) Mạnh Hoạch khiến
Mạnh Hoạch đội ơn mà không dám làm phản nữa. Tào Tháo muốn
dùng Quan Vũ để làm dũng tướng cho mình đã cấp cho Quan Vũ
ngựa Xích Thố để Quan Vũ lên đường tìm huynh đệ Lưu Bị và
Trương Phi; nhưng Quan Vũ chỉ cỡi ngựa đi một đoạn bèn quay lại
trở về với Tào Tháo để nguyện ra trận chiến đấu trả ơn cho Tào
Tháo.
Phao chuyên dẫn ngọc
+ Giải nghĩa: Ném gạch đưa ngọc đến, đưa miếng nhỏ ra để dụ
địch nhằm đạt cái lợi lớn hơn
Cầm tặc cầm vương
+ Giải nghĩa: Bắt giặc bắt vua
+ Diễn giải:
- Kế “Cầm tặc cầm vương” là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.
– Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ
bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như “Điệu hổ ly
sơn“, “Mỹ nhân kế” hay “Man thiên quá hải” đều có thể dùng cho
kế “Cầm tặc cầm vương”. Để đối phó với một nhân vật anh hùng,
thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng
như nhau.
– Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích
anh hùng và mỹ nhân kế. “Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc” là vậy.
– Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ
giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân
Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những
cách gián tiếp để cầm vương.
><Hỗn chiến kế
Phủ để trừu tân
+ Giải nghĩa: Rút củi đáy nồi, đánh tiêu hao hậu cần để làm quân
địch dần phải thua
+ Điển cố: Trong trận Chi Lăng-Xương Giang, nghe tin có viện
binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy
nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành lạ
hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị
viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân
lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan.
+ Diễn giải:
- Kế “Phủ để trừu tân” là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết
trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho
nước khỏi trào).
– Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi,
không để nó tiếp tục ác liệt. Chỗ diệu dụng kế “Phủ để trừu tân” là
không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất,
khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà
họ không biết.
– Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế “Phủ
để trừu tân” lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn,
nhỏ có hiệu quả nhỏ. Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế
song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng! Ở
chiến trường, kế “Phủ để trừu tân” lại càng dày đặc, giăng mắc như
mạng nhện.
Hỗn thủy mạc ngư
+ Giải nghĩa: Đục nước bắt cá, lợi dụng tình thế để ra tay đạt mục
đích
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, sau khi nhận thấy quân Tần rối
loạn sau đợt tấn công phủ đầu của quân Tấn, Tạ Huyền quyết định
tận dụng thời cơ tung toàn lực tấn công, kết quả là quân Tần đại
bại dù đông quân gấp 10 lần quân Tấn.
Kim thiền thoát xác
+ Giải nghĩa: Ve sầu lột xác, sử dụng bộ dạng mới để làm quân
địch bất ngờ trở tay không kịp
+ Diễn giải:
- Kế “Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác.
– Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình
tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội
khác. Kế “Kim thiền thoát xác” có một phạm vi rất rộng rãi và phổ
biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.
Quan môn tróc tặc
+ Giải nghĩa: Đóng cửa bắt giặc, dồn giặc vào thế bí không thể
chạy thoát
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, Tôn Tẫn và Bàng Quyên ban đầu là
hai học trò cùng thầy Quỷ Cốc tử, nhưng sau đó trở thành cừu thù
và là địch thủ chính của nhau trên chiến trường. Trong trận chiến
quyết định, Tôn Tẫn sai quân Tề dùng kế rút bếp để lừa Bàng
Quyên và quân Ngụy tiến sâu vào đường hẻm Mã Lăng. Khi toàn
bộ quân Ngụy đã rơi vào bẫy phục kích, Tôn Tẫn sai bịt đường
hẻm và bắn tên, quân Ngụy đại bại, Bàng Quyên cũng bỏ mạng
trong đám loạn tên.
Viễn giao cận công
+ Giải nghĩa: Xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, tể tướng nước Tần là Phạm Thư đề ra
kế viễn giao cận công, theo đó với các nước gần, Tần sẽ dùng vũ
lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem
quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh. Cứ như
vậy Tần nhanh chóng trở thành bá chủ của cả 6 nước chư hầu, tạo
điều kiện cho Doanh Chính thống nhất Trung Quốc sau đó.
><Tịnh chiến kế
Giả đồ phạt Quắc
+ Giải nghĩa: Mượn đường diệt Quắc, lợi dụng hòa hoãn địch để
rồi quay lại tấn công bằng lợi thế do chính địch tạo ra cho mình
+ Điển cố: Tấn Hiến công theo lời Tuân Tức mang đồ vàng ngọc
hối lộ nước Ngu với lý do mượn đường nước Ngu để đánh nước
Quắc, thực chất là Tấn Hiến công sợ Ngu sẽ sai quân cứu nước
Quắc. Sau khi Tấn đánh tan nước Quắc, Ngu chỉ còn trơ trọi một
mình, Tấn Hiến Công bèn đem quân quay về diệt nốt nước Ngu.
Thâu lương hoán trụ
+ Giải nghĩa: Trộm rường thay cột, phá hủy cơ sở của địch
Chỉ tang mạ hòe
+ Giải nghĩa: Chỉ cây dâu để mắng cây hòe, còn có biến thể khác
là chỉ chó mắng mèo, tấn công gián tiếp kẻ địch thông qua một
trung gian khác
+ Điển cố: Thời Tam Quốc trong lúc Tào Tháo đang đem quân đi
đánh Viên Thuật thì lương thảo thiếu thốn, binh lính kêu than. Thấy
vậy Tào Tháo mới lập kế đổ tội cho quan coi lương Vương Hậu là
lừa dối trong cấp phát lương rồi chém lấy đầu Vương Hậu. Quân
Tào từ đấy sợ không dám kêu ca nữa mà hết lòng đánh Viên Thuật.
+ Diễn giải:
- Kế “Chỉ tang mạ hòe” là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói
vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ
thái độ.
Giả si bất điên
+ Giải nghĩa: Giả ngu chứ không điên, làm cho quân địch coi
thường mình mà không đề phòng
+ Điển cố: Thời nhà Tống, Nùng Trí Cao tự xưng đế ở phương
Nam, hoàng đế nhà Tống phái quân đánh nhiều lần không được.
Đại tướng Địch Thanh bèn bày kế giả đò sợ hãi làm quân của Nùng
Trí Cao lơi là phòng bị, tức thì quân Tống tấn công đánh bại quân
Nùng Trí Cao.
Thượng ốc trừu thê
+ Giải nghĩa: Lên nhà rút thang, còn có biến thể khác là qua cầu
rút ván (tức Qúa giang trừu bản)
Thụ thượng khai hoa
+ Giải nghĩa: Trên cây hoa nở + Điển cố: Khi Tôn Tẫn tới nước
Yên làm Quân Sư, để đối phó với sự tấn công của Bàng Quyên,
Tôn Tẫn đã bày mưu cho thái tử nước Yên Kế này. Với số quân ít
ỏi khi ra đối phó với Bàng Quyên Thái tử đã cho binh sĩ chặt những
cành cây kéo lê trên đường hành quân làm bụi tung mù mịt khiến
mật thám của Bàng Quyên nghĩ rằng quân đội nước Yên đông gấp
10 lần do thám ban đầu. Bởi vậy Bàng Quyên đã rút quân.
Phản khách vi chủ
+ Giải nghĩa: Từ chỗ là khách biến thành vai chủ, lấn dần dần đất
của địch để đến chỗ địch không còn chỗ đứng
+ Điển cố: Trong chiến dịch chiếm Hán Trung của Lưu Bị, Pháp
Chính đã quân sư cho Hoàng Trung dùng kế phản khách vi chủ để
cuối cùng chém chết được đại tướng của Tào Ngụy là Hạ Hầu
Uyên
. + Diễn giải:
- Kế “Phản khách vi chủ” là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.
– “Phản khách vi chủ” là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động
nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi
phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. “Phản khách vi chủ” là
nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống
chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.
><Bại chiến kế
Mỹ nhân kế
+ Giải nghĩa: Dùng gái đẹp để làm rối loạn quân địch
+ Điển cố: Thời Xuân Thu, Câu Tiễn nước Việt bị Ngô vương Phù
Sai đánh cho suýt mất nước. Phạm Lãi và Văn Chùng bèn hiến kế
cho Câu Tiễn dâng mỹ nhân nổi tiếng của nước Việt là Tây Thi cho
Phù Sai khiến Ngô vương vì đam mê tửu sắc mà bỏ bê việc chính
sự, tạo thời cơ cho Câu Tiễn trả thù.
+ Diễn giải:
- “Mỹ nhân kế” là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình
thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Giai nhân từ ngàn
xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không
thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được
bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.
– Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi,
nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân. Sức mạnh của mỹ
nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có
quyền thế.
Không thành kế
+ Giải nghĩa: Trong hoàn cảnh thành không có quân lại bị quân
địch uy hiếp thì phải dùng những hành động kì lạ, trầm tĩnh khiến
quân địch khiếp sợ tưởng có mai phục mà bỏ đi
+ Điển cố: Kế này gắn liền với điển cố về Gia Cát Lượng trong
Tam quốc diễn nghĩa. Theo đó trong lúc Gia Cát Lượng đang giữ
ngôi thành trống không có phòng thủ thì Tư Mã Ý bất chợt kéo
quân đến. Đánh vào tính đa nghi của Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng đã
sai mở toang cổng thành, trên tường thành chỉ cắm tinh kỳ, lại sai
người quyét dọn trước cổng làm như không có sự đe dọa của quân
Ngụy. Cuối cùng Tư Mã Ý vì nghi ngờ mưu kế của Gia Cát Lượng
nên đã rút quân, bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một để bắt sống địch
thủ chính trên chiến trường.
+ Diễn giải:
- “Không thành kế” là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có
hai loại:
– Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc,
buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để
trốn thoát.
– Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi
mới bao vây tiêu diệt.
– “Không thành kế” thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối
phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết
định.
Phản gián kế
+ Giải nghĩa: Lợi dụng kế của địch để biến thành kế của mình
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Tào Tháo phái Tưởng Cán, bạn học cũ
của Chu Du sang Đông Ngô để dò xét lực lượng đối phương. Chu
Du đoán được mưu của Tào Tháo nên đã sử dụng chính Tưởng Cán
để làm Tào Tháo nghi ngờ hai hàng tướng cực kì thông thạo thủy
binh của Kinh Châu để rồi giết hai người đó.
+ Diễn giải: - “Phản gián kế” là dùng người của đối phương lừa dối
đối phương, dùng kế địch lừa địch.
– Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình.
Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương
đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián
điệp”.
Khổ nhục kế
+ Giải nghĩa: Tự làm mình khổ nhục để đánh lừa quân địch
+ Điển cố: Câu Tiễn sau khi thất bại trước Phù Sai thì hết lòng tận
tụy phục vụ Phù Sai như người hầu, thậm chí nếm cả chất thải của
Phù Sai để giúp thầy thuốc khám bệnh cho Phù Sai, tất cả chỉ để
che giấu sự chuẩn bị trả thù của nước Việt.
+ Diễn giải:
- “Khổ nhục kế” là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ
ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm
mưu nào đó.
Liên hoàn kế
+ Giải nghĩa: Sử dụng nhiều kế liên tiếp, muốn chiến thắng phải
biết móc nối nhiều kế với nhau
+ Điển cố: Liên hoàn kế gắn liền với giai thoại về Vương Doãn do
La Quán Trung kể lại trong Tam quốc diễn nghĩa. Vì thấy Đổng
Trác quá bạo ngược hung tàn nên Vương Doãn sử dụng liên hoàn
kế trong đó có mỹ nhân kế gửi Điêu Thuyền vào chia rẽ hai bố con
nuôi Đổng Trác và Lã Bố, sau đó dùng kế đục nước bắt cá khơi gợi
ở Lã Bố sự thù địch với cha nuôi để rồi cuối cùng chính Lã Bố cầm
kích đâm chết Đổng Trác.
+ Diễn giải:
- “Liên hoàn kế” là nối liền với nhau thành một dây xích.
– “Liên hoàn kế” còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng
dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.
Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng “Liên
hoàn kế”. Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước
làm cho bùn nhão ra. Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương
hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ. Tuy vậy, vẫn phải phân biệt
“Mỹ nhân kế” với “Liên hoàn kế”.
– Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra
cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng
không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự
việc trước.
Tẩu vi thượng sách
+ Giải nghĩa: Gặp kẻ địch mạnh thì kế chuồn là thích hợp hơn cả
trong 36 kế
+ Diễn giải:
- “Tẩu kế” nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.
– Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là “kế chạy“? Lại có câu:
“Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách“. (Ba mươi sáu chước, chạy là
hơn hết!)
– Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công
việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là
có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu
thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả
trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những
cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không
phải là nhân tài.
– Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ
đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang
đường thủy… Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng
hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để
bảo toàn lực lượng.
– “Tẩu kế” không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà
sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức
khỏe, lực lượng. Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh
hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận
tiện để quật lại, ấy mới thực là “Tẩu kế”.
– Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh
thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh.
Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì “tẩu”
không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét